1. Đại cương.
Viêm phổi là một tổn thương viêm cấp tính, nguyên nhân chủ yếu vẫn là do vi khuẩn như phế cầu khuẩn, tụ cầu sinh mủ… gây nên.
Tổn thương của viêm phổi chủ yếu sảy ra ở phế nang, tiến triển theo 3 giai đoạn kế tiếp nhau: giai đoạn xuất tiết, giai đoạn gan hoá đỏ, giai đoạn gan hoá xám và đều có 2 đặc điểm chung:
- Tổn thương có kích thước lớn, chiếm gần toàn bộ hoặc cả một thuỳ phổi.
- Hình ảnh vi thể của các tổn thương ở từng giai đoạn phần lớn đều giống nhau trong khắp cả khối viêm.
2. Tổn thương mô bệnh học.
2.1- Giai đoạn xuất tiết: thường nhẹ và ít gây tử vong.
- Đại thể: vùng phổi tổn thương căng, hơi chắc, màu đỏ tím, bóp vẫn còn tiếng lạo sạo phế nang, mặt cắt màu đỏ tím và có nhiều dịch bọt hồng chảy ra. Cắt phổi thả vào nước nổi hoặc lơ lửng.
- Vi thể: Thành phế nang thấy các mao mạch xung huyết, chứa đầy hồng cầu. Lòng phế nang chứa dịch phù, ít sợi tơ huyết và bạch cầu đa nhân, đại thực bào, tế bào biểu mô long của phế nang.
2.2- Giai đoạn gan hoá đỏ:
- Đại thể: vùng phổi tổn thương vẫn căng, chắc, màu đỏ xẫm hơn, bóp thấy mất tiếng lạo sạo phế nang. Phổi bị đông đặc lại, chất phổi mủn nát, ấn mạnh ngón tay có thể chọc thủng nhu mô phổi. Mặt cắt dễ, hơi giáp , màu đỏ giống tổ chức gan tươi, gạt dao có dịch đục hơi đỏ chảy ra. Cắt phổi thả vào nước chìm.
- Vi thể: Thành vách phế nang vẫn dày, phù, các mao mạch xung huyết. Lòng phế nang chứa nhiều sợi tơ huyết, hồng cầu, ít dịch phù và một vài bạch cầu đa nhân, tế bào biểu mô long của phế nang.
2.3- Giai đoạn gan hoá xám.
- Đại thể: vùng tổn thương của phổi vẫn căng, chắc, màu xám. Mặt cắt khối viêm khô giống như tổ chức gan ôi, gạt dao có ít dịch chảy ra
- Vi thể: Thành vách phế nang dầy, các mao mạch xung huyết, lòng phế nang chứa nhiều bạch cầu đa nhân, ít dịch tơ huyết là do các bạch cầu xâm lấn vào các đám tơ huyết và tiết ra men làm tan các sợi tơ huyết đi, chất tơ huyết bị tan ra sẽ được tống ra ngoài theo đường phế quản.
Hết giai đoạn gan hóa xám, lòng các phế nang được rửa sạch và tổ chức phổi được phục hồi hoàn toàn
3. Tiến triển.
Nếu viêm phổi được điều trị kịp thời và khả năng đáp ưng miễn dịch của cơ thể tốt, viêm phổi có thể khỏi hoàn toàn.
- Tổn thương tiêu biến: Bạch cầu đa nhân và đại thực bào tiết ra Enzym tiêu protein và một số men khác làm cho các lưới sợi tơ huyết tan đi, hình thành một thứ nước sánh rồi lỏng dần và sau đó được thải ra ngoài theo đường phế quản, dưới hình thái đờm và qua phản xạ ho của bệnh nhân. Khối viêm phổi từ chắc sẽ mềm dần và trở về màu sắc bình thường.
- Tổ chức hoá: Bạch cầu đa nhân và đại thực bào yếu dần không làm hết được dịch rỉ viêm tơ huyết, làm cho rỉ viêm tơ huyết dính vào vách phế nang hoặc có thể thoái hóa trong . Đồng thời tổ chức liên kết thành phế nang tăng sinh, phát triển vào lòng phế nang tạo thành tổ chức hạt và xơ hóa.
- Tạo thành ổ áp xe: hiếm gặp, tổn thương thường khư trú, có vỏ xơ bao bọc, trong là tổ chức hoại tử. Thường thấy ở người già, người suy giảm miễn dịch, nghiện rượu, xì ke, ma túy, mắc bệnh đái tháo đường..v.v.
4. Liên hệ với lâm sàng.
- Giai đoạn xuất tiết: bệnh nhân rét run, sốt cao đột ngột có khi tới 40 độ, khó thở, đau ngực, đờm loãng, nghe phổi thấy có ít ran nhỏ. Giai đoạn này diễn ra nhanh trong vài giờ đến một ngày.
- Giai đoạn gan hóa đỏ: bệnh nhân vẫn sốt cao, khó thở và thở nhanh, đau ngực, ho nhiều, đờm đặc màu rỉ sắt, gõ đục và rung thanh tăng, nghe phổi không thấy ran mà có tiếng thổi ống. X quang thấy màng phổi có hình ảnh mờ đều. Xét nghiệm máu thấy bạch cầu đa nhân tăng, tốc độ lắng máu tăng. Giai đoạn này kéo dài vài ngày đến một tuần.
- Giai đoạn gan hoá xám: bệnh nhân vẫn khó thở, đờm đặc màu xanh đục. Khi dịch rỉ viêm tiêu biến thì nhiệt độ giảm hẳn, bệnh nhân ho nhiều, đái nhiều, đờm loãng và ít dần, nghe phổi có ran nổ trở lại, bệnh nhân đỡ khó thở và tình trạng khá dần lên.
Nguồn: Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn