Các thuốc điều trị viêm loét dạ dày - Bệnh viện Bạch Mai

3 năm trước 25

Trong gần 30 chục năm trở lại đây, đã xuất hiện thuốc điều trị loét dạ dày tá tràng ngày càng nhiều, ngày càng hiệu quả hơn. Nhờ đó mà quan điểm và phương pháp điều trị đã thay đổi hẳn, từ một bệnh chủ yếu điều trị bằng ngoại khoa, đã trở thành một bệnh chủ yếu điều trị bằng nội khoa. 

Có thể nói, đây là một bước ngoặt, một tiến bộ rất lớn trong điều trị loét dạ dày tá tràng. Những trường hợp loét dạ dày tá tràng phải mổ ngày càng ít dần đi, chỉ dành cho những trường hợp loét có biến chứng như chảy máu, thủng hay hẹp môn vị. 

Tính hiệu quả cao của những thuốc đó, cộng thêm sự hiểu biết ngày càng sâu hơn về vi khuẩn Helicobacter Pylory (H.P), nguyên nhân chính gây nên viêm loét dạ dày, sẽ làm cho hiệu quả điều trị nội khoa bệnh loét đạt đến đỉnh cao ngoài sức tưởng tượng.

Biện pháp phẫu thuật chỉ còn để dàng cho những trường hợp rất hãn hữu, ngoại lệ mà thôi. Có thể nói, với sự xuất hiện của thuốc cimetidin đầu tiên, đã mở ra một thời đại mới trong điều trị hết sức hiệu quả bệnh loét dạ dày tá tràng, chẳng khác nào sự xuất hiện của Penicilline, đã mở ra một kỷ nguyên mới của kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm trùng.

Các thuốc chống acide chlorhydrique:

Chúng trung hòa ion H của HCL, làm cho pH tăng trên 3, đặc biệt làm thay đổi tính acide (khả năng gây loét) trong khi pH không thay đổi nhiều, khả năng này gọi là khả năng đệm.

Có hai loại thuốc chống acide:

1. Thuốc chống acide ion (-) (anion)

Tác dụng trung hòa nhanh, mạnh nhưng không có khả năng đệm.

Ví dụ; Cacbonate Canxi, Natri, Cacbonate monosodique vv... Hiện nay ít dùng trong các trường hợp viêm cấp, hoặc rối loạn cơ năng dạ dày, chỉ dùng trong 1 hoặc 2 ngày.

2. Thuốc chống acide ion (+) (cation):

Các thuốc này có khả năng đệm tốt. Đó là các muối của Aluminium (Phosphate, Trisilicate, Hydroxyde), ví dụ: Maalox, Polisilane gel, Phossphalugel, Gasterine, Barudon... Trong Barudon có chứa Hydroxyde, Aluminium, Magnesium, và oxthazaine,  oxthazaine có tác dụng làm tê tại chỗ như Lidocaine nhưng mạnh hơn, an toàn hơn.

Loại thuốc này cần uống nhiều lần trong ngày để duy trì pH luôn luôn trên 3 - 3,5 dùng sau khi ăn, không được dùng trước ăn, sẽ gây tác dụng ngược lại. Các thuốc này có tác dụng ngăn cản hấp thụ các thuốc khác, do đó thuốc thứ 2 phải uống sau thuốc chống acide ít nhất 2 giờ.

Các thuốc tạo màng bọc

Những thuốc này có khả năng kết dính với dịch nhày dạ dày thành một màng bao bọc niêm mạc dạ dày và đáy ổ loét, tuy nhiên chúng cũng có tác dụng trung hòa acid, nhưng yếu hơn thuốc chống acid, đó là:

Silicate Al (Kaolin, smecta)

Silicate Mg (gastropulgite...)

Bismuth: Subcitrate Bismuth (Trymo) hay CBS.

  • Ngoài tác dụng tạo màng bọc, nó còn có tác dụng diệt H.P. 
  • Liều lượng: 120mg/lần x 4 lần/ngày, dùng trong 30 ngày, sau đó phải dừng.

Sucralfatre (Ulcar, Keal, Sucrate gel, Sucrabest...):

Đó là muối Aluminium của Sucrose octa sulfat. Khả năng gắn với protein của dịch nhày rất chắc, không bị mật phá hủy, ngăn chặn tái hấp thu H+ và kích thích sản xuất prostaglandine, do đó được dùng nhiều hơn. Liều lượng: 1gr/lần x 3, 4 lần/ngày, dùng trước khi ăn.

Prostaglandine:

chỉ dùng loại prostaglandine E1 và E2, chúng có các tác dụng như:

  • Chống bài tiết acide: không mạnh.
  • Kích thích tiết nhày và bicacbonate, tăng dòng máu đến dạ dày.
  • Người ta ít dùng prostaglandine trong điều trị loét, mà hay dùng đề phòng loét dạ dày tá tràng khi dùng thuốc chống viêm không Steroide hoặc Aspirine.
  • Biệt dược: Misoprostol (Cytotec), Enprostol
  • Liều lượng: 200 mg/lần x 4 lần/ngày hoặc 400 mg/lần x 2 lần/ngày trong khi ăn và trước khi ngủ.

Các thuốc chống bài tiết ức chế thụ thể H2

Cimetidin (Cimet, Tagamet) đưa vào thị trường đầu tiên vào năm 1978, đến nay đã có nhiều thế hệ thuộc nhóm thuốc này, những thế hệ thuốc càng về sau, tác dụng càng mạnh hơn, tác dụng phụ càng ít hơn, do đó liều lượng dùng cũng ít hơn.

Famotidine có nhiều tên gọi khác nhau: Servipep, Quamatel...

Các thuốc ức chế bơm proton

Ức chế men H+/K+ ATPase làm cho tế bào bìa không bơm H+ ra ngoài, nghĩa là không còn tiết dịch HCL nữa. Trong nhóm này có nhiều biệt dược khác nhau:

  • Lanzoprazole (Lanzor, Ogast, Prevacide...)
  • Omeprazole (Omeprazole, Mopral, Zoltum, Losec...)
  • Pantoprazole (Pantoprazole, Eupantol, Inipomp...)
  • Rabeprazole (Pariet...)
  • Esomeprazole (Inexium, Nexium, Leziole)

Các thuốc khác

Mucosta hoặc Rebamipide là một hợp chất được lựa chọn từ các chất tương tự Amino acide của 2 (aH) - Quinolone.

  • Nó có tác dụng kích thích niêm mạc dạ dày tiết ra Prostaglandine, cải thiện chất lượng của chất nhày dạ dày bằng cách làm tăng thành phần Glycoprotein, ức chế sự bám dính của HP vào niêm mạc dạ dày, ức chế bạch cầu trung tính sản sinh Cytokine, ức chế sản xuất các Interleukine 8...
  • Do đó, nó có tác dụng làm lành ổ loét, ngăn ngừa loét tái phát, đồng thời làm giảm triệu chứng viêm của các đợt viêm dạ dày cấp từ viêm dạ dày mạn, ngăn ngừa loét dạ dày tá tràng do các thuốc chống viêm không Steroide.
  • Có thể dùng đơn độc hoặc phối hợp với các thuốc ức chế H2 hoặc thuốc chống acide, thuốc tạo màng bọc.
  • Liều lượng: Viên nén 100mg x 3 lần/ngày.
  • Thuốc hầu như không có tác dụng phụ

Selbex trong đó chứa Teprenone có tác dụng kích thích dạ dày tiết chất nhày. 

Liều lượng: Mỗi viên nang chứa 50 mg Teprenone, uống 3 viên/ngày sau mỗi bữa ăn. Không nên dùng cho trẻ em và phụ nữ có thai vì chưa có thông tin đầy đủ.

Nguồn tham khảo: Bệnh viện Bạch Mai

Đọc toàn bộ bài viết