Điều trị ung thư vú giai đoạn 4 như thế nào?

5 năm trước 41

Ung thư vú giai đoạn 4 còn được gọi là ung thư vú di căn hay ung thư vú giai đoạn cuối.

Ung thư vú giai đoạn 4 là giai đoạn mà ung thư đã không còn giới hạn ở vị trí ban đầu mà đã lây lan sang một hoặc nhiều vị trí sau đây:

  • Các hạch bạch huyết ở xa
  • Não
  • Gan
  • Phổi
  • Xương

Vì có nhiều loại ung thư vú nên cũng có nhiều phương pháp khác nhau để điều trị ung thư vú. Các lựa chọn điều trị gồm có:

  • Hóa trị
  • Xạ trị
  • Phẫu thuật
  • Liệu pháp hormone
  • Liệu pháp nhắm trúng đích (targeted therapy)
  • Các thử nghiệm lâm sàng
  • Giảm đau

Hóa trị

Hóa trị liệu hay hóa trị là phương pháp sử dụng một hoặc nhiều loại thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư và làm chậm sự phát triển của ung thư.

Các loại thuốc được dùng dưới dạng uống hoặc tiêm tĩnh mạch. Sau đó, thuốc sẽ đi qua đường máu và đi đến vị trí hình thành ban đầu của ung thư cũng như là các khu vực khác trong cơ thể nơi các tế bào ung thư đã lây lan.

Tuy nhiên, thuốc hóa trị cũng ảnh hưởng đến cả các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể. Đây là lý do tại sao bệnh nhân thường gặp phải các tác dụng phụ như:

  • Mệt mỏi
  • Buồn nôn
  • Nôn mửa
  • Táo bón
  • Rụng tóc

Các tác dụng phụ này sẽ giảm dần sau khi quá trình hóa trị hoàn tất.

Xạ trị

Xạ trị là phương pháp sử dụng tia X năng lượng cao hoặc các dạng phóng xạ khác để tiêu diệt tế bào ung thư và làm chậm sự phát triển ung thư. Phóng xạ có thể được sử dụng theo một trong hai cách:

  • Từ bên ngoài cơ thể và tập trung vào vùng mà ung thư đang phát triển
  • Đưa nguồn phóng xạ dưới dạng kim, ống hoặc viên vào gần khối u trong cơ thể.

Phương pháp xạ trị cho hiệu quả cao nhất khi ung thư mới chỉ giới hạn trong một vùng cụ thể nhưng phương pháp này cũng thường được sử dụng cho những trường hợp mà ung thư đã di căn sang não và xương.

Xạ trị sẽ gây mệt mỏi, bỏng và kích ứng da, ngoài ra còn có thể gây ra các biến chứng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng hơn như viêm phổi và tổn hại tim.

Phẫu thuật

Mặc dù phẫu thuật không phải là phương pháp điều trị phổ biến cho ung thư vú giai đoạn 4, nhưng cũng có thể được khuyến nghị trong một số trường hợp để giảm đau hoặc các triệu chứng khác.

Các lựa chọn phẫu thuật cho những trường hợp ung thư vú giai đoạn 4 phụ thuộc vào vị trí mà ung thư đã di căn và các triệu chứng đi kèm. Ví dụ, nếu xác định khối u di căn sang phổi hoặc gan thì có thể loại bỏ bằng cách phẫu thuật.

Đôi khi, phương pháp phẫu thuật cũng được sử dụng cho cả các trường hợp ung thư di căn lên não.

Tùy thuộc vào vị trí phẫu thuật mà có thể sẽ xảy ra những biến chứng khác nhau. Nói chung, các biến chứng thường gặp nhất của phương pháp phẫu thuật ung thư vú gồm có sưng, nhiễm trùng và chảy máu.

Liệu pháp hormone

Liệu pháp hormone được sử dụng trong các trường hợp ung thư dương tính với thụ thể hormone, có nghĩa là estrogen hoặc progesterone trong cơ thể đang tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và lan rộng của ung thư.

Tamoxifen là một loại thuốc ngăn chặn các thụ thể estrogen trong các tế bào ung thư vú, nhờ đó có thể ngăn các tế bào ung thư phát triển và phân chia. Nhưng loại thuốc này thường có tác dụng phụ là bốc hỏa và tiết dịch âm đạo (khí hư).

Ngoài ra còn có các loại thuốc khác, được gọi là nhóm thuốc ức chế aromatase (aromatase inhibitors - AI), có tác dụng làm ngừng sự sản sinh estrogen và làm giảm nồng độ estrogen trong cơ thể. Nhóm thuốc này gồm có:

  • Anastrozole (Arimidex)
  • Letrozole (Femara)
  • Exemestane (Aromasin)

Tác dụng phụ của các loại thuốc ức chế aromatase thường là đau cơ và cứng khớp.

Bên cạnh đó, liệu pháp hormone cũng có thể dẫn đến mất cân bằng nội tiết. Nếu như đang dùng thuốc để giảm nồng độ estrogen thì sẽ cần được bác sĩ theo dõi về các vấn đề liên quan đến nồng độ estrogen thấp,ví dụ như loãng xương.

Liệu pháp nhắm trúng đích

Đây là phương pháp sử dụng các loại thuốc nhắm mục tiêu đến các vị trí cụ thể trên tế bào ung thư. Các loại thuốc này thường được kết hợp với các phương pháp điều trị khác, ví dụ như hóa trị.

Một loại thuốc thường được dùng nhiều trong liệu pháp nhắm trúng đích là trastuzumab (Herceptin), có tác dụng điều trị một loại ung thư tiến triển nhanh là ung thư vú HER2 dương tính.

Ung thư vú HER2 dương tính làm tăng nồng độ thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì người 2 (HER2). Đây là một loại protein nằm trên bề mặt tế bào và kích thích sự phát triển của tế bào. Các loại thuốc như trastuzumab nhắm đến loại protein này và có tác dụng làm chậm hoặc ngăn cản sự phát triển của ung thư.

Tác dụng phụ của các liệu pháp nhắm trúng đích gồm có mệt mỏi, giảm lượng bạch cầu trong máu (WBC), tiêu chảy và dị ứng.

Điều trị bước đầu ung thư vú HER2 dương tính

Theo các hướng dẫn gần đây của Hiệp hội Ung thư học lâm sàng Hoa Kỳ (ASCO), những người bị ung thư vú HER2 dương tính cần được điều trị bước đầu bằng liệu pháp kết hợp các loại thuốc sau:

  • Trastuzumab (Herceptin)
  • Pertuzumab (Perjeta)
  • Thuốc thuộc nhóm taxane - một nhóm thuốc được dùng trong hóa trị

Tuy nhiên, nếu có chống chỉ định thì không dùng taxane.

Những người mắc cả ung thư vú HER2 dương tính và ung thư vú dương tính với thụ thể hormone có thể được điều trị bằng liệu pháp hormone thay cho liệu pháp nhắm trúng đích hoặc kết hợp với liệu pháp nhắm trúng đích.

Điều trị nối tiếp ung thư vú HER2 dương tính

Theo khuyến nghị của ASCO, nếu tình trạng ung thư vú HER2 dương tính tiếp tục tiến triển trong hoặc sau khi điều trị bước đầu thì chuyển sang điều trị bước hai bằng trastuzumab emtansine (Kadcyla). Khi bước hai không còn hiệu quả thì bác sĩ có thể chuyển sang điều trị bước ba bằng các loại thuốc như lapatinib (Tykerb) kết hợp với capecitabine (Xeloda).

Nếu đã hoàn thành quá trình điều trị với trastuzumab ít nhất 12 tháng trước khi tái phát thì có thể điều trị lại từ bước đầu, có nghĩa là dùng trastuzumab, pertuzumab và một loại thuốc taxane (trừ trường hợp chống chỉ định dùng taxane).

Những người mắc cả ung thư vú HER2 dương tính và ung thư vú dương tính với thụ thể hormone cần được tiếp nhận pháp đồ điều trị kết hợp giữa liệu pháp nhắm trúng đích ung thư HER2 dương tính và hóa trị liệu, có thể là cả liệu pháp hormone nữa.

Thử nghiệm lâm sàng

Thử nghiệm lâm sàng là các nghiên cứu về những loại thuốc mới hoặc sự kết hợp mới của các loại thuốc đã được phê chuẩn. Các thử nghiệm được tiến hành khi các nhà nghiên cứu phát hiện ra một loại thuốc có tiềm năng chữa bệnh cao hơn so với các loại thuốc, phương pháp điều trị tiêu chuẩn hiện tại.

Nhiều người cho rằng việc tham gia vào các nghiên cứu này là điều nguy hiểm nhưng cần hiểu rằng các phương pháp điều trị ung thư vú tiêu chuẩn ngày nay đều đã từng qua thử nghiệm lâm sàng mới có thể được đưa vào sử dụng.

Giảm đau

Giảm đau là một phần quan trọng của hầu hết các phác đồ điều trị ung thư. Trong khi các phương pháp điều trị nêu trên giúp kéo dài tuổi thọ thì các phương pháp giảm đau giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân trong thời gian điều trị.

Tùy thuộc vào nguồn và loại cơn đau mà sẽ có những lựa chọn khác nhau để kiểm soát cơn đau, gồm có:

  • Các bài tập tay và vai
  • Acetaminophen (Tylenol) và các loại thuốc kháng viêm không steroid (NSAID)
  • Các loại thuốc giảm đau nhóm Opioid như morphine (Mitigo, MorphaBond ) và Oxycodone (Oxycontin)

Tác dụng phụ thường gặp của Acetaminophen và NSAIDS thường là đau đầu và đau dạ dày. Ngoài ra còn có các tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nghiêm trọng hơn như tổn thương gan và vàng da.

Tác dụng phụ thường gặp của các loại thuốc giảm đau nhóm Opioid gồm có táo bón, buồn nôn và nôn mửa. Các tác dụng phụ nghiêm trọng hơn của nhóm này còn tùy thuộc vào loại thuốc nhưng thường là huyết áp thấp và co giật.

Nên nói chuyện với bác sĩ về cơn đau càng sớm càng tốt để có biện pháp thích hợp giúp bạn thấy dễ chịu hơn.

Đọc thêm về biến chứng của các phương pháp điều trị ung thư vú

Lời kết

Không có phương pháp điều trị nào phù hợp với tất cả mọi người mà việc lựa chọn phải dựa trên độ tuổi, tiền sử gia đình mắc ung thư và mức độ tiến triển của bệnh.

Ung thư vú giai đoạn 4 là giai đoạn không thể chữa khỏi được nữa nhưng vẫn có nhiều lựa chọn điều trị để kéo dài tuổi thọ và cải thiện chất lượng sống.

Xem thêm:

Đọc toàn bộ bài viết